Thay vì chọn “sáng tạo” và “liều lĩnh” như startup Mỹ thì các startup công nghệ tại Việt Nam lại chọn “sao chép” và “an toàn”
Ngồi ở thung lũng Silicon, Hạnh Nguyễn, người có 5 năm làm việc trong vai trò lập trình viên tại Microsoft, trước khi khởi nghiệp với startup về thời trang mang tên Stuff N Style cho rằng, sở dĩ công nghệ được nhiều người chọn để khởi nghiệp đơn giản vì đây là ngành có lợi thế về “chi phí cố định” (fixed cost).
“Ngành công nghệ có thể tốn nhiều tiền trong giai đoạn đầu để xây dựng sản phẩm tốt nhưng bù lại, sản phẩm tiếp theo không tốn thêm chi phí nữa”, Hạnh Nguyễn chia sẻ.
Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là hệ thống chứa được lượng người dùng vô hạn. Vẫn có những quy tắc khác chẳng hạn nếu quy mô tăng lên 10 lần thì hệ thống sẽ phải thiết kế lại. Mặc dù vậy, fixed cost cũng là ưu điểm lớn hấp dẫn nhiều người như Hạnh chọn công nghệ để khởi nghiệp, bên cạnh nông nghiệp hay y tế.
Tất nhiên, lợi thế chi phí kể trên chỉ là một phần. Điểm thu hút quan trọng đó là nhu cầu tìm kiếm giải pháp mới trên thế giới đang ngày một nhiều.
Thung lũng Silicon, nơi tồn tại các công ty công nghệ hàng đầu thế giới, startup vẫn phát triển mạnh mẽ và đảm nhiệm vai trò mà các DN lớn không làm được.
“Trong khi các DN lớn đòi hỏi những bước đi an toàn và thận trọng hơn thì các startup chính là những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tìm tòi giải quyết những vấn đề mới”, Hạnh cho biết.
Hiểu đơn giản, startup nhỏ hơn nên phải sáng tạo hơn và “liều lĩnh” hơn DN lớn. Startup có nhiệm vụ phát hiện ra những bài toán mới, khó của thị trường và giải quyết chúng.
Ngày nay, khi các nhà đầu tư ngày một xem trọng vai trò của startup hơn, các Unicorn (những startup có giá trị trên 1 tỉ USD) đang xuất hiện ngày một nhiều. Như nhà sáng lập của Stuff N Style chia sẻ, cô không quá lo lắng về việc gọi vốn cho startup của mình. Ở thung lũng Silicon có rất nhiều những nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền vào những thứ mới mẻ, miễn là đội ngũ startup đủ sức thuyết phục họ.
Đó là chuyện ở Mỹ, còn ở ta thì sao? Cùng với ảnh hưởng của trào lưu mở startup trên toàn thế giới, vài năm gần đây startup tại Việt Nam cũng manh nha hình thành và hiện đã trở thành một cộng đồng. Tương tự ở Mỹ, startup tại Việt Nam cũng chủ yếu hoạt động trong ngành công nghệ.
Startup nhỏ hơn nên phải sáng tạo hơn và “liều lĩnh” hơn DN lớn, startup có nhiệm vụ phát hiện ra những bài toán mới, khó của thị trường và giải quyết chúng.
Tuy nhiên, dường như có một sự khác biệt quan trọng giữa một startup công nghệ ở Mỹ và Việt Nam.
“Lý do startup tại Việt Nam hoạt động nhiều trong ngành công nghệ đơn giản bởi nó … dễ làm, dễ tìm tài liệu. Nếu startup tại Mỹ đi vào tìm tòi, giải quyết những bài toán mới thì startup của Việt Nam trái lại, thường đi sao chép mô hình đã thành công trên thế giới rồi mang về áp dụng tại địa phương”, một chuyên gia lâu năm cũng khởi nghiệp trong ngành công nghệ tại Việt Nam nhận định.
Lời nhận xét trên không phải là không có lý khi cộng đồng startup của Việt Nam dù đang ngày một đông hơn, trẻ hơn, nhưng dường như vẫn không có nhiều những ý tưởng mới lạ. Trong khi đó, rất dễ để tìm ra các startup đang ăn theo mô hình đã thành công ở nước ngoài. Theo ý của vị chuyên gia này, startup Việt Nam đang thiếu đi một thuộc tính cơ bản trong định nghĩa về startup: Sự sáng tạo.
Thay vào đó là tư duy phải làm sao để giống với những gì các startup nước ngoài đã làm. Nói cách khác là“ăn theo” quốc tế. Đây là hướng đi an toàn hơn hẳn so với tìm tòi cái mới.
“Cuối cùng các startup Việt lại chọn giải các bài toán giống với các DN lớn khác. Đến khi có đại gia nhảy vào, startup không thể nào cạnh tranh nổi, cuối cùng chịu thất bại hoặc may mắn hơn là bị mua lại. Đó cũng là lý do startup tại Việt Nam khó có thể ‘grow big’”, vị chuyên gia chia sẻ.
Thay vì chọn “sáng tạo” và “liều lĩnh” như startup Mỹ thì startup công nghệ Việt Nam lại chọn “sao chép” và “an toàn”.
Một điểm thú vị là những DN Việt Nam mang tinh thần sáng tạo mà startup công nghệ trong nước đáng ra cần phải có lại hoạt động trong lĩnh vực phi công nghệ. Chẳng hạn, có thể kể tới Thế giới di động trong lĩnh vực bán lẻ điện máy hay Golden Gate trong lĩnh vực chuỗi nhà hàng. Họ tìm ra bài toán khó của thị trường, sáng tạo, đưa ra phương thức giải quyết và cuối cùng phát triển trở thành những DN tầm cỡ.
Việc startup công nghệ tại Việt Nam chọn giải pháp an toàn hơn có một phần lý do khách quan xuất phát từ khẩu vị của nhà đầu tư. Khác với thung lũng Silicon, các nhà đầu tư ở Việt Nam cũng thích đầu tư vào các startup đã “hòm hòm”.
“Tại Việt Nam, số lượng quỹ đầu tư không nhiều, và họ cũng thường kỳ vọng startup phát triển đến một mức nhất định rồi mới đổ tiền vào. Nếu ở Mỹ, startup chứng minh bằng ý tưởng thì ở Việt Nam, startup phải chứng minh bằng con số”, Phạm Kim Hùng, sáng lập Tech Elite chia sẻ.
Trong trường hợp không thể phát triển lớn mạnh, việc xây dựng rồi đem bán lại cho DN khác cũng có thể xem là một thành công?
Đúng là hầu hết startup cuối cùng đều đem bán lại. Tuy nhiên, theo Hùng, bán startup là câu chuyện phát triển lâu dài, còn nếu ngay từ đầu startup đã “bám chặt” vào tư tưởng ‘làm để bán’ thì càng khó khăn hơn.
“Các startup đều biết câu nói của Guy Kawasaki: Nếu bạn chỉ nghĩ đến tiền, thì đừng có làm startup. Không phải vì tiền không quan trọng, mà nếu bạn chỉ nghĩ đến tiền, sẽ có những khó khăn bạn không thể vượt qua được, bởi có những lúc bạn sẽ chẳng có gì trên người”, Hùng chia sẻ.