Nhờ quản lý dữ liệu, Kimberly-Clark Corp, gã khổng lồ về các sản phẩm tiêu dùng thiết yếu từ khăn giấy, giấy vệ sinh đến tã lót và những sản phẩm tương tự, đã đạt tới ngưỡng “đâu cần là có”.
Từ cuối năm 2010, công ty đã sử dụng một hệ thống phân tích dữ liệu mới để tinh chỉnh chuỗi cung ứng. Kimberly-Clark thu thập dữ liệu ở cấp độ bán lẻ để có được sự hiểu biết chính xác hơn về khối lượng hàng bán tại từng địa phương đến từng sản phẩm cụ thể và sử dụng thông tin đó để tối ưu hóa lượng hàng tồn kho duy trì tại các cửa hàng trên khắp thị trường. Hệ thống phân tích cũng cho phép công ty quản lý tốt hơn các nhà máy sản xuất, trung tâm phân phối và lưu chuyển hàng hóa thông qua nhiều cấp độ của môi trường bán lẻ, từ kho lưu trữ đến quầy tính tiền.
Kết quả cho thấy, “Kimberly-Clark đã cải thiện được độ chính xác của dự báo hàng tồn kho từ 15% lên 25%”, ông Rick Sather, Phó Chủ tịch của chuỗi cung ứng, tiết lộ. “Hệ thống phân tích mới đã cho phép chúng tôi điều chỉnh lượng hàng tồn kho, chủ yếu là giảm xuống, và cùng lúc đó cải thiện quy trình, dịch vụ”, ông Sather nói. Đại diện Kimberly-Clark cho biết, nhờ khả năng dự báo được cải thiện, họ đã có thể xóa bỏ 10 triệu USD hàng tồn kho trong hệ thống tại Mỹ.
Quản lý tốt hơn chuỗi cung ứng đã dẫn đến sự cải thiện tương ứng trong hiệu quả hoạt động và các số liệu tài chính cũng như vốn lưu động. “Chúng tôi đang đi trên một cuộc hành trình theo nhu cầu và nhận được một sự hiểu biết tốt hơn về những gì đang thực sự xảy ra với nhu cầu ở cấp độ người tiêu dùng và bán lẻ. Đây là tiền đề để thúc đẩy toàn bộ chuỗi cung ứng với chi phí quản lý và chi phí hàng tồn kho hiệu quả hơn”, ông Sather chia sẻ. “Nó đã thay đổi cách chúng tôi cộng tác với các nhà bán lẻ, giúp chúng tôi tiếp cận tốt hơn với những gì đang thực sự xảy ra trên các kệ hàng, lập kế hoạch hàng tồn kho cũng như các chương trình khuyến mãi”.
Trung tâm của hệ thống mới này là một công cụ phân tích của công ty công nghệ Terra, giúp kết nối các dòng dữ liệu từ 18 nhà bán lẻ. Hiện tại, có hơn hai nhà bán lẻ quy mô lớn đang lên kế hoạch để sớm tham gia vào hệ thống này. Khi đó, mạng lưới sẽ nắm giữ 80% lượng dữ liệu về tình hình bán hàng của Kimberly-Clark. Trong trường hợp cần thiết, công ty có thể gia tăng sản xuất hay giảm số lượng sản xuất một cách linh hoạt để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ví dụ, vào mùa thu và mùa đông năm ngoái, công cụ phân tích về nhu cầu khách hàng đã cảnh báo Kimberly-Clark về doanh số tăng cao của khăn giấy Kleenex, một dấu hiệu cho thấy mùa cúm đã bắt đầu tại một số vùng. Từ đó, công ty đã đẩy mạnh sản xuất cũng như điều chỉnh lượng hàng tồn kho để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ tốt hơn so với trước đây. Bên cạnh đó, hệ thống này cũng giúp công ty theo kịp sự dịch chuyển của các điểm nóng, như bệnh cúm lây lan từ vùng này sang vùng khác.
Hệ thống phân tích mới cũng bao gồm phần mềm giải pháp bán lẻ giúp công ty theo dõi các sản phẩm của mình thông qua các chuỗi cung ứng bán lẻ, từ lúc trong kho cho đến khi lên kệ hàng.
Bước tiếp theo trong sự phát triển của nền tảng phân tích sẽ là một công cụ cung cấp cái nhìn kỹ lưỡng hơn về dữ liệu mã hàng tại các trung tâm phân phối. Điều này sẽ cho phép công ty kiểm kê thêm ngoài mạng lưới trung tâm phân phối của mình để từ đó cung cấp những dịch vụ cao cấp hơn cũng như cải thiện dòng vốn lưu động của công ty.
Cổng thông tin dữ liệu sẽ bao gồm mã hàng của từng sản phẩm cụ thể, đơn vị lưu kho sản phẩm, vị trí cửa hàng, tình trạng hàng hòa theo từng ngày, từng tuần.
Chẳng hạn, khi lên kế hoạch về một chương trình khuyến mãi trong vòng 12 tuần tới cho sản phẩm giấy vệ sinh Cottonelle, công ty sẽ giả định về lượng hàng lưu kho cần thiết tại mỗi địa điểm bán lẻ. Sau đó, họ sẽ xem xét về tình hình tiêu thụ tại mỗi cửa hàng. Có cửa hàng bán tốt, và cửa hàng chưa được tốt lắm. Thay vì gửi cùng một lượng hàng lưu kho tại tất cả các cửa hàng, giờ đây công ty đã có thể chủ động cung ứng theo khả năng tiêu thụ.