WB lý giải nguyên nhân vì sao 98% doanh nghiệp Việt Nam có quy mô siêu nhỏ

0
717

Trong báo cáo mới công bố, Ngân hàng Thế giới đưa ra những phân tích riêng về thực trạng quy mô doanh nghiệp tại Việt Nam.

Khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước ở Việt Nam có sự luân chuyển mạnh, trong đó số lượng các doanh nghiệp mới đăng ký thành lập và số lượng doanh nghiệp đóng cửa đều tăng lên trong những năm qua.

Tổng cộng có 107.000 doanh nghiệp đóng cửa hoặc tạm dừng kinh doanh trong năm 2018, so với 73.000 doanh nghiệp đóng cửa trong năm 2017. Tiếp theo, có 24.000 doanh nghiệp đóng cửa kinh doanh trong năm tháng đầu năm 2019, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước.

Số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 131.000 trong năm 2018 so với 127.000 năm 2017, cao hơn nhiều so với số lượng doanh nghiệp đóng cửa trong cả hai giai đoạn. Số lượng doanh nghiệp mới thành lập cũng trội hơn số doanh nghiệp đóng cửa trong năm tháng đầu năm 2019, với 54.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới.

40% tổng các doanh nghiệp bị giải thể hoặc tạm dừng hoạt động đầu năm 2019

Trong số các doanh nghiệp đóng cửa, doanh nghiệp thương mại bị ảnh hưởng nhiều nhất, chiếm 40% tổng các doanh nghiệp bị giải thể hoặc tạm dừng hoạt động đầu năm 2019. Một khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy những lý do chính dẫn đến giải thể hoặc tạm dừng kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm khó khăn về tìm kiếm thị trường phù hợp, năng lực cạnh tranh thấp của sản phẩm và doanh nghiệp trong nước, hạn chế về khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính và lao động.

Nhưng mặc dù có những thách thức như trên, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới vẫn liên tục vượt trội so với số lượng doanh nghiệp bị giải thể, ít nhất tính từ năm 2013. Dù phát triển năng động, khu vực tư nhân trong nước vẫn chủ yếu do số lượng các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chi phối.

Trong số khoảng 500 ngàn doanh nghiệp trong nước hiện nay, 98% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ

Trong số khoảng 500 ngàn doanh nghiệp trong nước hiện nay, 98% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Mặc dù các doanh nghiệp trên tạo ra phần lớn việc làm cho nền kinh tế nhưng nhiều doanh nghiệp đang hoạt động trong các lĩnh vực chế tạo, chế biến đơn giản và lĩnh vực dịch vụ (buôn bán nhỏ lẻ và nhà hàng) có năng suất tương đối thấp.

Hầu hết đều tập trung vào thị trường trong nước, chỉ có ít doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Các doanh nghiệp đó thường không đủ quy mô, khả năng tiếp cận tài chính và công nghệ để trở thành đơn vị sản xuất hiệu quả.

Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn nữa

Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân, nhu cầu chính sách quan trọng nhất là phải tạo sân chơi bình đẳng cho mọi doanh nghiệp. Việt Nam tuy đã đạt được nhiều tiến triển về cải thiện môi trường kinh doanh (với bằng chứng qua cải thiện trong thứ hạng về môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới), nhưng vẫn còn những méo mó đã tồn tại ăn sâu bén rễ.

Chính phủ cần rà soát lại chương trình chính sách về cạnh tranh nhằm củng cố những thể chế hỗ trợ cạnh tranh đồng thời phân cấp đầy đủ quy trình ra quyết định để tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp đều có khả năng tiếp cận công bằng các yếu tố sản xuất chính, như đất đai, tín dụng, lao động và công nghệ.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cần triển khai cải cách nhằm đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế để đẩy mạnh đầu tư tư nhân và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), tiếp tục giảm vai trò còn lớn bất tương xứng của Nhà nước trong nền kinh tế. Sự hiện diện hùng hậu của khối doanh nghiệp Nhà nước dẫn đến giá cả không hiệu quả và những méo mó khác trên thị trường, gây chèn ép khu vực tư nhân trong nước.

Hợp lý hóa vai trò của Nhà nước đòi hỏi phải loại bỏ những méo mó ở khu vực tư nhân và ưu ái cho các DNNN. Nhà nước cần từng bước loại bỏ vai trò quản lý trực tiếp các hoạt động kinh tế ở những nơi các yếu tố thị trường vận hành hiệu quả để tập trung nhiều hơn vào vai trò kiến tạo và tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.

Rate this post

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here